Truyện cổ tích Ỷ Thổi Đón Quan
Hằng năm, theo lệ, quan mưng tạo cứ lần lượt đi chơi, ăn tiệc khắp các bản làng trong vùng mỗi nơi một lần. Mỗi lần như vậy, dân tốn kém không biết bao nhiêu mà kể. Người ta sợ những dịp ấy vô cùng; thật đúng cái cảnh:
"Gần quan mất nhà, gần nhamất trâu".
Đến lượt bản quê Ỷ Thổi phải đón quan. Trước ngày đó, quan đã sai lính tráng tới, ra lệnh dân bản phải làm pạc trọc (cổng chào) thật nguy nga, và mỗi nhà phải nộp đủ pạc pác, pạc chảy (trăm con vịt, trăm con gà) để quan quân ăn uống. Dân làng nhao nhác, cổng chào làm dễ, nhưng mỗi nhà trăm gà, trăm vịt thì đào đâu ra! Xưa nay vẫn phục Ỷ Thổi là người tài, dân bản bèn cử Ỷ Thổi ra để đối phó.
Ỷ Thổi vui vẻ nhận lời.
Ngày quan đến bản ăn chơi đã tới. Ỷ Thổi bảo dân làng:
- Tất cả mọi người, già trẻ lớn bé ai cũng phải lấy nhọ nồi nhọ chảo hoặc mực đen vẽ vào mồm đen sì.
- Nhà nào cũng mổ đủ một gà, một vịt nhưng thịt cứ ăn hết, còn chỉ để lại mỏ của chúng.
- Nhà nào cũng đóng cửa cài then, tháo hẳn một đầu hồi làm lối vào.
- Lấy sắt vụn bỏ vào xào trong chảo.
- Khi quan hỏi, ai cũng phải trả lời như thế... như thế... đúng điều Ỷ Thổi dặn.
Quan quân chiêng trống rầm trời hăm hở kéo tới. Chẳng thấy cổng chào nguy nga đâu hết, chỉ thấy dân làng đổ xô ra đón, mồm mép ai nấy đều đen sì. Quan đang tức bực cũng phải bật cười,quát hỏi:
- Lệnh ta ra phải làm cổng chào đón, sao chúng bay không làm, lại vẽ mõm nhọ ra đón ta?
Một cụ già liền ra đáp:
- Bẩm quan, lệnh quan bảo làm cổng chào, thì chúng tôi làm đúng cổng chào đây; cổng chào không phải là "mồm đen" thì còn là gì (1)?
Quan chịu cứng, đành bỏ qua không dám hoạnh họe về việc làm cổng chào nữa. Khi vào làng thấy nhà nào cũng đóng cửa, tháo đầu hồi ra để vào, lão ngạc nhiên hỏi:
- Sao các ngươi lại làm thế?
Mọi người đều trả lời giống nhau:
- Chúng tôi tưởng quan ăn nhiều của ngon vật lạ, người chắc to lớn lắm, vào cửa không lọt, nên phải mở đầu hồi sẵn, nhỡ quan vào chơi. Không ngờ quan cũng chỉ bằng thằng chú nhà dưới!
Quan chán quá, cho là dân nơi này kém, không biết đường ăn nói. Tới lúc vào nhà, thấy chảo nhà nào cũng xào đầy những gang cùng sắt, lão chẳng hiểu đầu xuôi đuôi ngược thế nào, hỏi, thì dân ai cũng trả lời như nhau:
- Nghe đồn quan cưỡi ngựa quý, ngựa chỉ ăn sắt, chúng tôi xào sẵn để quan cho ngựa ăn.
Quan bắt đầu bực mình, bụng bảo dạ: "Dân nơi này ngu quá! Ngựa vua chúa cũng phải ăn cỏ ăn thóc mới sống, huống chi ngựa quan! Ai đời ngựa ăn sắt bao giờ!".
Quan ngồi chờ mãi vẫn chưa thấy tiệc, rượu dọn tới. Hỏi tới gà, vịt, nhà nào cũng bưng tới một đĩa, trên có mỏ gà, mỏ vịt. Lão điên người đạp bàn quát tháo:
- Lệnh ta là mỗi nhà phải nộp trăm gà, trăm vịt, sao lại thế này? Chúng
mày muốn chết cả lũ hay sao?
Bấy giờ Ỷ Thổi mới lễ phép thưa:
- Bẩm quan, quan ra lệnh nộp trăm gà, trăm vịt, chúng con không dám trái lệnh. Đây không phải là trăm gà, trăm vịt thì là cái gì ạ? Nếu chúng con làm không đúng ý quan, thì đấy là vì lệnh quan truyền xuống không thật rõ đấy chứ ạ.
Lão quan tức ứ họng nhưng chẳng còn vặn vẹo vào đâu được. Lão đành vờ vĩnh quở mắng dân ngu muội, đoạn ôm bụng đói, cưỡi ngựa đói, dẫn lũ quân đói chuồn thẳng.
Nguồn: Hợp tuyển Văn học Dân gian các dân tộc, tập 1;
Đặng Văn Lung, Trần Thị An biên soạn,
Nxb. Văn hóa Dân tộc, H., 1994.
--------
(1) Pạc trọc - tiếng Nùng, vừa có nghĩa là cổng
chào vừa có nghĩa là "mồm đen"; cũng như pạc pác, pạc chảy nghĩa là
trăm vịt, trăm gà, nhưng cũng có nghĩa là "mồm vịt, mồm gà". Đây là trò
chơi chữ đồng âm khác nghĩa.